Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

Câu Chuyện Thật Đằng Sau Công Việc Của Thời Đại Cứu Chuộc

Toàn bộ kế hoạch quản lý của Ta, một kế hoạch trải dài sáu ngàn năm, gồm có ba giai đoạn, hoặc ba thời đại như sau: mở đầu là Thời Đại Luật Pháp; Thời Đại Ân Điển (cũng gọi là Thời Đại Cứu Chuộc); và cuối cùng là Thời Đại Vương Quốc. Công việc của Ta ở ba thời đại này là khác nhau, tuỳ theo bản chất của mỗi thời đại, nhưng ở mỗi giai đoạn nó sẽ phù hợp với nhu cầu của con người – hay nói chính xác hơn là nó được thực hiện để chống lại những mưu trò mà Sa-tan bày ra trong cuộc chiến mà Ta đang giao đấu. Công việc của Ta là để đánh bại Sa-tan, để chứng tỏ sự khôn ngoan và toàn năng của Ta, để phơi bày hết các mưu chước của Sa-tan và như vậy là để cứu vớt toàn nhân loại đang sống trong lãnh địa của nó. Điều này là để thể hiện sự khôn ngoan và toàn năng của Ta, đồng thời cũng phanh phui được sự ghê tởm quá thể của Sa-tan. Hơn nữa là để dạy cho các vật thọ tạo của Ta phân biệt được điều tốt và cái xấu, biết được rằng Ta là Đấng Thống Trị của vạn vật, thấy rõ được rằng Sa-tan là kẻ thù của nhân loại, là kẻ thấp hèn nhất trong những kẻ thấp hèn, là tà ác, và chỉ ra chắc chắn được sự khác biệt giữa tốt và xấu, giữa lẽ thật và sự sai trái, giữa thánh thiện và rác rưởi, giữa cao quý và ô nhục. Bằng cách này, loài người mê muội sẽ có thể làm chứng cho Ta rằng Ta không phải là kẻ làm sa ngã loài người, và chỉ có Ta – Chúa sáng thế – mới có thể cứu rỗi được loài người, mới có thể ban cho con người những thứ họ hưởng thụ; và họ sẽ biết được rằng Ta là Đấng Thống Trị của vạn vật còn Sa-tan chỉ là một trong những loài Ta tạo ra nhưng rồi đã chống lại Ta. Kế hoạch quản lý sáu ngàn năm của Ta chia làm ba giai đoạn để có thể đạt được kết quả này: con cái Ta trở thành các nhân chứng cho Ta, hiểu được ý muốn của Ta, và biết được Ta là lẽ thật. Như vậy, trong giai đoạn đầu của kế hoạch quản lý sáu ngàn năm của Ta, Ta đã thực hiện công việc pháp luật, tức là công việc mà Đức Giê-hô-va đã dẫn dắt con cái của Ngài. Giai đoạn thứ hai khởi đầu các công việc của Thời Đại Ân Điển tại xứ Giu-đa. Chúa Giê-su đại diện cho mọi công việc của Thời Đại Ân Điển; Ngài giáng sinh trong xác trần và chịu đóng đinh trên thập tự giá, và Ngài cũng mở đầu cho Thời Đại Ân Điển. Ngài chịu đóng đinh để hoàn thành công việc cứu chuộc, để kết thúc Thời Đại Luật Pháp và mở ra Thời Đại Ân Điển, vì thế Ngài được gọi là “Đấng Chỉ Huy Tối Cao”, là “Đấng Chịu Tội”, là “Đấng Cứu Chuộc”. Như vậy, nội dung công việc của Chúa Giê-su khác với Đức Giê-hô-va, mặc dù về nguyên tắc thì vẫn giống nhau. Đức Giê-hô-va bắt đầu Thời Đại Luật Pháp, tạo lập nền tảng, tức là điểm khởi nguồn cho công việc của Ngài ở trần thế, và ban ra các mệnh lệnh; đó là hai thành tựu của Ngài đại diện cho Thời Đại Luật Pháp. Công việc Chúa Giê-su đã làm trong Thời Đại Ân Điển không phải là ban mệnh lệnh mà là thực hiện các mệnh lệnh, do đó mở ra Thời Đại Ân Điển và khép lại Thời Đại Luật Pháp đã tồn tại hai ngàn năm. Ngài là người tiên phong, đến để khai mở Thời Đại Ân Điển, thế mà công việc chính của Ngài lại là cứu chuộc. Và như thế thành tựu của Ngài có hai phần: mở ra một thời đại mới, và hoàn tất công việc cứu chuộc của Ngài trên thập tự giá. Rồi Ngài đã rời đi. Đến đây, Thời Đại Luật Pháp đã khép lại và toàn nhân loại bước vào Thời Đại Ân Điển.
Công việc của Chúa Giê-su thực hiện phù hợp với nhu cầu của con người trong thời kỳ đó. Nhiệm vụ của Ngài là cứu chuộc nhân loại, tha thứ cho mọi tội lỗi của họ, và đặc tính của Ngài hoàn toàn là khiêm nhường, kiên nhẫn, yêu thương, mộ đạo, nhẫn nhịn, nhân ái, và yêu thương nhân từ. Ngài ban phước đủ đầy và trao nhiều ân sủng cho loài người, và với mọi thứ mà loài người có thể hưởng thụ, Ngài mang cho họ thụ hưởng: sự bình an và hạnh phúc, tình yêu thương và bao dung của Ngài, sự nhân ái và yêu thương nhân từ của Ngài. Thời kỳ đó, mọi người đều tìm thấy vô vàn thứ để thụ hưởng: tâm của họ được vững an, linh hồn của họ được an ủi, và họ được nâng đỡ bởi Đấng Giê-su Cứu Thế. Họ được những điều này là vì hệ quả của thời đại mà họ đang sống. Trong Thời Đại Ân Điển, con người đã nếm trải sự sa ngã của Sa-tan, vì vậy việc cứu chuộc cho toàn nhân loại đòi hỏi rất nhiều ân sủng, sự nhẫn nhịn và kiên trì vô hạn, và nhiều hơn nữa là dự dâng hiến đủ để chuộc mọi tội lỗi của loài người thì mới có thể đạt được mục đích. Điều nhân loại chứng kiến trong Thời Đại Ân Điển chỉ đơn thuần là sự dâng hiến của Ta – đó là Chúa Giê-su - để chuộc mọi tội lỗi của nhân loại. Tất cả những gì họ biết là Đức Chúa Trời luôn nhân từ và nhẫn nhịn, và tất cả những gì họ thấy là sự nhân ái và yêu thương nhân từ của Chúa Giê-su. Điều này hoàn toàn là bởi họ đang sống trong Thời Đại Ân Điển. Và nữa, trước khi được cứu chuộc, họ phải biết thụ hưởng hết những ân sủng mà Chúa Giê-su ban cho họ, chỉ có như thế là tốt cho họ. Bằng cách này, tội lỗi của họ có thể được tha thứ trong lúc tận hưởng những ân sủng, và họ cũng có cơ hội được cứu chuộc khi thụ hưởng sự nhẫn nhịn và kiên trì của Chúa Giê-su. Chỉ có cách thông qua sự nhẫn nhịn và kiên trì của Chúa Giê-su mà họ có thể nhận được sự tha thứ và thụ hưởng những ân sủng mà Ngài ban cho – như Chúa Giê-su từng phán bảo: Ta đến không phải để cứu chuộc những người ngay chính mà là những người tội lỗi, để họ được tha thứ cho những tội lỗi của họ. Nếu Chúa Giê-su giáng thế với bản tính phán xét, nguyền rủa và kém bao dung với những tội lỗi của con người, thì con người đã không bao giờ có cơ hội được cứu chuộc, và đã vĩnh viễn ở cùng tội lỗi. Và nếu xảy ra như thế, thì kế hoạch quản lý sáu ngàn năm đã phải dừng ngay ở Thời Đại Luật Pháp, và Thời Đại Luật Pháp đã phải kéo dài cả sáu ngàn năm. Tội lỗi của con người chỉ có thể đã nhân lên nhiều hơn và ghê tởm hơn, và việc tạo ra con loài người đã trở nên vô tích sự. Con người chỉ có thể đã phụng sự Đức Giê-hô-va theo luật pháp còn tội lỗi của họ thì có thể đã vượt xa tội lỗi của những người đầu tiên được tạo ra. Chúa Giê-su càng yêu thương nhân loại, càng tha thứ cho tội lỗi của họ và ban đủ nhân ái và yêu thương nhân từ cho họ, thì nhân loại càng có khả năng được cứu rỗi, được gọi là những con chiên lạc mà Chúa Giê-su chuộc về với giá rất đắt. Sa-tan không thể chen vào việc này, vì Chúa Giê-su đã đối đãi với những môn đệ của Ngài như một người mẹ đầy yêu thương đối đãi con trẻ ẵm trong lòng. Ngài không nổi giận cũng không khinh miệt họ, mà đầy an ủi vỗ về; ở giữa họ Ngài không bao giờ nổi cơn thịnh nộ, mà nhẫn nhịn với tội lỗi của họ và nhắm mắt trước sự ngu xuẩn và mê muội của họ, đến mức phán bảo rằng: “Hãy tha thứ cho người khác bảy mươi lần bảy”. Vì vậy trái tim của Ngài mới cảm hoá được những trái tim khác. Bằng cách như thế này mà con người đã nhận lãnh sự tha tội thông qua sự nhẫn nhịn của Ngài.
Mặc dù Chúa Giê-su trong hiện thân của Ngài thì hoàn toàn không thể hiện cảm xúc, nhưng Ngài luôn an ủi các môn đồ của Ngài, hỗ trợ họ, giúp đỡ họ, và giữ vững họ. Cho dù Ngài có làm bao nhiêu công việc hay chịu đựng bao nhiêu đau khổ, thì Ngài cũng không bao giờ đòi hỏi quá mức ở con người, mà luôn kiên trì và nhẫn nại với những tội lỗi của họ, vì thế mà con người ở Thời Đại Ân Điển trìu mến gọi Ngài là “Đấng Giê-su Cứu Thế mến yêu”. Đối với con người thời đó, với tất cả họ, những gì Chúa Giê-su sở hữu là lòng nhân ái và sự yêu thương nhân từ. Ngài không bao giờ ghi nhớ những tội lỗi của con người, và đối đãi với họ không dựa trên những tội lỗi họ gây ra. Bởi vì đó là một thời đại khác, Ngài thường ban nhiều thức ăn nước uống để con người được thoả mãn. Ngài đối xử với các môn đệ của Ngài đầy nhân từ, chữa lành bệnh tật, đuổi tà quỷ, và cứu sống người chết. Để rằng con người có thể tin ở Ngài và thấy được rằng mọi công việc của Ngài đều được thực hiện một cách khẩn thiết và chân thành, Ngài tận tụy đến nỗi làm phục sinh những cái xác đã thối rửa, cho họ thấy rằng trong tay của Ngài thì thậm chí người chết cũng có thể sống lại. Bằng cách này Ngài đã âm thầm chịu đựng và thực hiện việc cứu chuộc của Ngài trong họ. Thậm chí trước khi Ngài bị đóng đinh lên thập tự giá, Chúa Giê-su đã nhận lãnh về Ngài mọi tội lỗi của nhân loại và đã chịu tội thay cho nhân loại. Trước khi bị đóng đinh, Ngài thậm chí đã mở sẵn đường đến thập tự giá để mà có thể cứu chuộc cho nhân loại. Và cuối cùng Ngài đã bị đóng đinh lên thập tự giá, hy sinh chính bản thân Ngài cho thánh giá, và Ngài đã ban hết lòng nhân ái, yêu thương nhân từ và sự thánh thiện của Ngài cho nhân loại. Đối với nhân loại Ngài luôn bao dung, không hề thù hận, mà còn tha thứ cho mọi tội lỗi của họ, cổ vũ để họ cải hối, và dạy họ biết nhẫn nhịn, kiên trì, và yêu thương để theo chân Ngài hy sinh bản thân mình vì thánh giá. Tình yêu Ngài dành cho những người anh em còn lớn hơn tình yêu Ngài dành cho Ma-ri. Các công việc Ngài làm đều trên nguyên tắc chữa lành con người và xua đuổi tà quỷ, tất cả là vì công cuộc cứu chuộc của Ngài. Đi đến đâu Ngài cũng đối đãi với hết thảy các môn đệ của Ngài bằng ân sủng. Ngài ban sự giàu có cho người nghèo, sự lành cho người què, sự thấy cho người mù và sự nghe cho người điếc; Ngài mời cả những kẻ thấp hèn, những người khốn cùng, những kẻ tội lỗi ngồi vào cùng bàn với Ngài, không bao giờ xa lánh họ mà luôn kiên nhẫn, như Ngài đã phán bảo: Khi một kẻ chăn dắt đánh mất một con trong đàn chiên trăm con, thì hắn sẽ bỏ chín mươi chín con còn lại để đi tìm con lạc, và khi hắn tìm thấy được con chiên lạc hắn sẽ vui mừng tột độ. Ngài yêu thương môn đệ của Ngài như thể chiên cái yêu thương chiên con. Cho dù họ ngu dốt, mê muội và tội lỗi trong mắt Ngài, mà hơn nữa còn là những thành phần thấp hèn nhất trong xã hội, thì Ngài vẫn coi những người này - những con người bị kẻ khác khinh miệt - như con ngươi trong mắt của Ngài. Khi Ngài đã yêu thương, Ngài sẽ hy sinh sự sống của Ngài cho họ, như thể một con chiên được dâng tế trên ban thờ. Ngài sống giữa họ như thể Ngài là tôi tớ của họ, để mặc cho họ lợi dụng và tàn sát Ngài, phục tùng họ vô điều kiện. Với môn đệ của Ngài thì Ngài là Đấng Giê-su Cứu Thế yêu mến, nhưng đối với người Pha-ri-si, những kẻ đứng trên cao mà rao giảng, thì Ngài không tỏ ra nhân ái hay yêu thương nhân từ, mà chỉ có ghê tởm và căm giận. Ngài không làm gì nhiều cho người Pha-ra-si, chỉ thi thoảng dạy bảo và quở trách họ; Ngài không đi lại giữa họ để thực hiện cứu chuộc, không đưa ra dấu chỉ hay phép lạ. Ngài ban mọi thương xót, yêu thương nhân từ lên các môn đệ của Ngài, nhẫn chịu vì tội lỗi của họ đến tận cùng, khi Ngài bị đóng đinh lên thập tự giá, chịu đựng sự lăng nhục cho đến khi Ngài hoàn toàn cứu chuộc được hết thảy nhân loại. Đây là toàn bộ công trình của Ngài.
Nếu không có sự cứu chuộc của Chúa Giê-su, nhân loại đã phải sống đời đời trong tội lỗi, trở thành con cái của tội lỗi, và là hậu duệ của ác quỷ. Tiếp tục cách đó, cả trần thế này có thể đã trở thành nơi trú ngụ của Sa-tan, nơi dung thân của nó. Nhưng công việc cứu chuộc đòi hỏi phải thể hiện lòng nhân ái và yêu thương nhân từ đến nhân loại; vì chỉ có cách này nhân loại mới có thể nhận lãnh được sự tha thứ và cuối cùng mới có thể đạt được sự hoàn thiện và đầy đủ. Không có giai đoạn công việc này, kế hoạch công việc của sáu ngàn năm sẽ không thể tấn tới. Nếu Chúa Giê-su không bị đóng đinh, nếu Ngài chỉ đến để chữa lành và xua đuổi tà quỷ nơi con người, thì con người đã không bao giờ có thể hoàn toàn được tha thứ cho tội lỗi của họ. Trong ba năm rưỡi mà Chúa Giê-Su đã thực hiện công việc của Ngài ở trần thế, Ngài chỉ hoàn thành một nửa công việc cứu chuộc của Ngài; sau đó, khi bị đóng đinh lên thập tự giá và trở thành hình thể của xác thịt tội lỗi, bị giao cho tà ác, thì Ngài đã hoàn tất việc bị đóng đinh và làm chủ số phận của nhân loại. Chỉ khi bị giao vào tay Sa-tan thì Ngài mới hoàn tất cứu chuộc cả nhân loại. Trong ba mươi ba năm rưỡi chịu đựng ở trần thế, bị chế nhạo, phỉ báng, và bị quên lãng, thậm chí đã có lúc Ngài không có chỗ tựa đầu, không chỗ ngả lưng; rồi sau đó Ngài bị đóng đinh, với cả thân thể trong sạch và vô tội của Ngài bị đóng lên thập tự giá, trải qua bao cung bậc đau đớn. Những kẻ quyền lực đã nhạo báng và áp bức Ngài, lính lệ của chúng thậm chí nhổ vào mặt Ngài; nhưng Ngài vẫn giữ im lặng và chịu đựng đến tận cuối, phục tùng vô điều kiện đến lúc chết, khi mà Ngài có thể cứu chuộc toàn nhân loại. Chỉ đến khi đó Ngài mới được nghỉ ngơi. Công việc của Chúa Giê-su làm chỉ đại diện cho Thời Đại Ân Điển mà không đại diện cho Thời Đại Luật Pháp, cũng không thay thế cho công việc của những ngày cuối cùng. Đây là cốt lõi công việc của Chúa Giê-su trong Thời Đại Ân Điển, giai đoạn thứ hai mà con người đã trải qua – Thời Đại Cứu Chuộc.
Giới thiệu:
Lắng nghe càng nhiều nhạc thánh tin lành, cảm nhận tình yêu của Chúa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét